Kinh tế là động lực phát triển xã hội. Lịch sử đã chứng minh xã hội trở nên biến động rối loạn khi kinh tế gặp khó khăn. Để vượt qua những khủng hoảng về kinh tế, con người phát minh ra nhiều phương tiện, công cụ để sản xuất ra nhiều sản phẩm hơn, cũng như sử dụng hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên (chẳng hạn quản lý giám sát năng lượng để tiết kiệm năng lượng). Trong thời đại số ngày nay, những bước tiến lớn của khoa học công nghệ hứa hẹn tiếp tục ghi dấu ấn trong sự phát triển của bất kì nền kinh tế nào. Việt Nam muốn đạt được thành quả đòi hỏi sự nỗ lực phấn đấu từ bốn lực lượng xã hội - nhà nước, nhà khoa học, nhà quản lý và nhà trường. Bốn "nhà" có vai trò tương hỗ lẫn nhau nhằm tạo ra một sự biến đổi ngoạn mục cho nền kinh tế nước nhà.
1, Nhà nước kiến tạo chế độ, chính sách
Trên thế giới, làn sóng cách mạng công nghiệp lần thứ tư được chính phủ các nước rất quan tâm. Đức - quốc gia đưa ra khái niệm “Industrie 4.0” - đề ra chiến lược công nghiệp 4.0, hướng tới thế hệ nhà máy thông minh và soạn thảo nhiều tiêu chuẩn liên quan. Từ năm 2012, Đức thành lập Nhóm đặc trách nghiên cứu các lĩnh vực ưu tiên hành động nhằm tạo ra động lực tăng trưởng kinh tế mới cho nước Đức. Không lâu sau, Mỹ cũng ưu tiên phát triển ngành công nghiệp chế tạo (cụ thể là nhà máy thông minh) với khái niệm mới “Internet công nghiệp” và thành lập Liên minh Internet công nghiệp năm 2014 để nghiên cứu ứng dụng IoT trong công nghiệp. Nước Anh năm 2010 đã đưa ra sáng kiến “thành phố công nghệ” (Tech City UK) với 21 cụm công nghệ số trên khắp nước Anh. Chính phủ Hàn Quốc lên kế hoạch cấp vốn cho hơn 2000 doanh nghiệp nhỏ và vừa để thúc đẩy sự thành lập “nhà máy thông minh”. Nhật Bản năm 2013 công bố “Chiến lược toàn diện cho khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo”, thúc đẩy “thông minh hóa”, “hệ thống hóa”, “toàn cầu hóa”, tập trung phát triển “xã hội 5.0” - xã hội “siêu thông minh”.
Tại Viêt Nam chính phủ cũng rất quan tâm đến công nghiệp 4.0. Năm 2017 , Chỉ thị 16/CT-TTg về việc tăng cường năng lực tiếp cận cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 được ban hành. Chỉ thị nêu nhiệm vụ thúc đẩy phát triển, tạo sự bứt phá thực sự về hạ tầng, ứng dụng và nhân lực công nghệ thông tin - truyền thông; phát triển hạ tầng kết nối số và bảo đảm an toàn, an ninh mạng tạo điều kiện cho người dân và doanh nghiệp dễ dàng, bình đẳng trong tiếp cận các cơ hội phát triển nội dung số; tạo ra hành lang pháp lý, mở cửa chính sách tạo môi trường cho các doanh nghiệp được tự do nghiên cứu, tìm hiểu và áp dụng công nghệ mới. Chính phủ cũng tạo điều kiện cho doanh nghiệp áp dụng công nghệ vào sản xuất, từng bước hình thành nhà máy thông minh.
Việc tạo ra môi trường pháp lý thông thoáng cho doanh nghiệp thực hiện ý tưởng sản xuất-kinh doanh là rất cần thiết. Những xu hướng, công nghệ mới chưa có văn bản pháp luật nào hướng dẫn, do đó rất dễ vướng các quy định trong nhiều lĩnh vực, hoạt động cụ thể. Những doanh nghiệp start-up mong muốn hình thành nhà máy thông minh còn nhiều tiềm năng sáng tạo khi thực hiện sáng kiến thường bị đòi hỏi làm việc theo quy trình, cách thức cũ. Điều này vô tình làm giảm sự hiệu quả của các sáng kiến đổi mới, chặn lại sự phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp trong nước.
2, Nhà khoa học nghiên cứu hướng đi
Cách mạng công nghiệp 4.0 mang đến những sự đột phá không thể phủ nhận, nhưng cũng đặt ra rất nhiều thách thức cho tương lai cho Việt Nam. Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF) báo cáo Việt Nam nằm trong nhóm các nước chưa có sự sẵn sàng cho cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Các yếu tố về đổi mới sáng tạo công nghệ và giáo dục - những yếu tố chuẩn bị cho cách mạng công nghiệp 4.0 của Việt Nam đều đang ở mức thấp. Việt Nam chỉ đạt 4,9 trên thang điểm 10 về mức độ sẵn sàng với cách mạng 4.0.
Những con số từ 3 cơ quan, tổ chức trên chỉ ra rằng Việt Nam mong muốn tận dụng cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 để bứt tốc vươn lên, thay đổi diện mạo kinh tế cả nước là một thách thức lớn. Các nhà khoa học, nhân tài công nghệ cần được tập trung, nghiên cứu trong một số tổ hợp khoa học công nghệ trọng điểm quốc gia, vừa nghiên cứu, vừa sản xuất kinh doanh và chỉ tập trung vào các công nghệ cốt lõi như khoa học máy tính,phần mềm quản lý sản xuất, phần mềm quản lý giám sát năng lượng, robot… Các nhà khoa học cũng cần chủ động xác định rõ trọng điểm đầu tư, mục tiêu phát triển, cũng như đề ra lộ trình thực hiện thích hợp cho từng lĩnh vực ngành nghề.
3, Nhà quản lý (doanh nghiệp) áp dụng công nghệ vào thực tiễn
4, Nhà trường cung cấp nhân lực chất lượng cao
Về mặt quản lý, các cơ sở giáo dục cần chuyển hướng dần sang tự chủ trong tổ chức và hoạt động, chủ động tìm kiếm các nguồn lực đầu tư bên ngoài, mở rộng các hoạt động đầu tư liên danh, liên kết trong và ngoài nước về đào tạo, nghiên cứu khoa học. Gỡ bỏ các rào cản để hướng sự đầu tư của các thành phần kinh tế vào giáo dục đáp ứng yêu cầu về nguồn nhân lực phục vụ sự phát triển đất nước.
Ngoài ra, với học sinh, sinh viên, những người lao động tương lai đất nước cần kết hợp học kiến thức lý thuyết với hình thành kĩ năng vận dụng, thích nghi, giải quyết vấn đề, tư duy độc lập. Nguồn học ngoài sách vở, tải liệu, còn có nhiều hình thức khác như qua trò chơi, liên hệ tương tác nhóm, nghiên cứu đám đông và học bằng dự án. Những dự án thực tế như ứng dụng phần mềm quản lý sản xuất, hay hệ thống quản lý năng lượng mang ý nghĩa thời sự.
Cách mạng công nghiệp 4.0 đã bắt đầu trên thế giới. Đây thực sự là cơ hội cho nhiều nước trong đó có Việt Nam nhằm theo kịp với sự phát triển của thế giới sau nhiều năm cố gắng. Điểm thuận lợi là với cuộc cách mạng 4.0, tất cả các quốc gia cùng chung một vạch xuất phát. Nếu như nước ta từng bị chậm chân trong lĩnh vực công nghiệp nặng, thì nay với yêu cầu thời đại mới, phần mềm quản lý sản xuất, phần mềm quản lý giám sát năng lượng... sẽ là cơ hội để Việt Nam bứt tốc. Với mong muốn thực hiện thành công "khát vọng dân tộc" thời đại mới, mọi thành phần xã hội không thể chối bỏ sự liên kết, hợp tác với nhau vì mục tiêu chung.